Nghệ nhân Ya Tuất và sản phẩm của mình
Trong ngôn ngữ của dân tộc Churu ở Nam Tây Nguyên, từ “srí”(nhẫn mái) có nghĩa là chiếc nhẫn dành cho nữ giới và sră là chiếc nhẫn dành cho nam giới (nhẫn trống). Đối với những cô gái, chàng trai trẻ Churu sinh sống trong các plêi dọc triền thung lũng phì nhiêu bên dòng Đa Nhim, chiếc nhẫn bạc khi họ được sở hữu không chỉ là đồ trang sức, là của hồi môn quý giá mà còn là một tín vật thiêng liêng trong hôn ước của ngày đôi lứa nên duyên cầm sắt. Khi trai gái trao nhau chiếc srí, sră được chạm khắc tinh vi bằng bạc, không bao giờ họ nghĩ đến một ngày chia xa...
Nhiều người dân Churu khi được hỏi đã thừa nhận rằng, họ có nguồn gốc tộc người là một bộ phận của đồng bào Chăm ở vùng đồng bằng ven biển lưu lạc lên cao nguyên miền Thượng. Huyền thoại Churu kể: Ngày xưa, vua Chăm bắt mọi người lên rừng, lên suối tìm của cải dâng vua. Ông quan chịu trách nhiệm thu của cải không giao nộp cho nhà vua. Người Churu bị bắt phải đi làm mãi. Vì vậy, họ chạy trốn lên tận miền núi cao, sống chung với người Châu Mạ, Cơ Ho cho tới tận ngày nay. Trong ngôn ngữ Malayo-polynésian, “Churu” có nghĩa là “chiếm đất”. Điều nói trên chỉ là một giả thiết và chưa có những cứ liệu khoa học xác đáng để chứng minh.
Cho tới nay, dân tộc Churu trên cả nước có khoảng 15.000 người, trong đó riêng địa bàn Lâm Đồng có 14.585 đồng bào Churu sinh sống. Gần gũi và sẻ chia với các dân tộc anh em và trải qua bao chặng đường lịch sử và quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, đồng bào Churu vẫn giữ được những nét bản sắc riêng. Trong kho tàng giá trị văn hóa vật chất và tinh thần phong phú, người Churu có một nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng, đó là nghề chạm trổ kim hoàn...
Nhẫn bạc do nghệ nhân Ya Tuất làm ra.
Nếu ở miền duyên hải, đồng bào Chăm nổi tiếng với nghề làm gốm, trên cao nguyên có người Châu Mạ, Cơ Ho, Êđê khéo tay với nghề dệt thổ cẩm, thì những tiền nhân Churu đã truyền lại cho con cháu của họ nghề kim hoàn bằng nguyên liệu bạc. Chuyện về những chiếc nhẫn srí, sra là một trong những ấn tượng của nghề đúc bạc Churu. Để có được một cặp nhẫn cưới, người nghệ nhân phải thực hiện nhiều thao tác, nhiều cung đoạn tỉ mẩn mà không phải ai cũng có thể làm được. Trong cả hàng chục ngàn người dân Churu hiện nay duy nhất chỉ còn lại một nghệ nhân chế tác nhẫn cưới, đó là anh Ya Tuất ở plêi (làng) Ma Đanh, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương, Lâm Đồng.
Với sự hướng dẫn của nghệ nhân Ya Tuất, chúng tôi tham gia vào một cuộc tìm hiểu “công nghệ” đúc nhẫn. Thứ nguyên liệu chính để tạo khuôn đúc là loại sáp ong tốt. Người nghệ nhân dùng sáp ong nấu chảy và lấy dùi gỗ nhúng vào sáp nóng sau đó để nguội sẽ cho ra một ống sáp tròn như hình bánh cuốn. Tùy theo kích thước của ngón tay, nghệ nhân sẽ cắt thành những chiếc khoen tròn lớn nhỏ để tạo khuôn. Phần hoa văn trên nhẫn, được cán thành những sợi nhỏ như sợi chỉ khâu rất mảnh, cứ ba sợi sáp bện chân rếp thành một viền hoa văn. Cuống nhẫn được làm bằng sáp như đầu chiếc đũa con, dài khoảng 2cm. Lấy lá dứa làm thành chiếc phễu cuốn lấy cuống nhẫn, bên trên cắm que tre để giữ khuôn. Mỗi khuôn bao giờ cũng đúc một lần hai chiếc nhẫn, một chiếc nhẫn mái và một chiếc nhẫn trống. Sau khi tạo dáng xong, người nghệ nhân mang nhẫn sáp nhúng đều vào dung dịch phân trâu hòa lẫn với đất, sau đó đưa đi phơi nắng chừng từ nửa ngày đến cả ngày cho khô hoàn toàn. Tiếp theo, khuôn sáp ấy sẽ được mang đốt trên than lửa, sáp bên trong sẽ nóng chảy, phần dung dịch phân trâu còn lại sẽ tạo thành một khuôn âm bản. Sau đó, mang bạc nấu chảy đổ vào khuôn. Lúc khuôn nguội, một đôi nhẫn bạc màu đen xin xỉn sẽ hiện ra. Mang cặp nhẫn ấy bỏ vào nồi bồ kết rừng đang đun sôi để nấu thêm vài phút thì tự nhiên cặp nhẫn đã lên màu sáng bóng lấp lánh.
Nghệ nhân Ya
Tuất nổi lửa nấu bạc
Có những điều thật lạ lùng và rất khó lý giải xung quanh chuyện những chiếc srí, sră. Ya Tuất nói đôi điều về bí quyết đúc nhẫn: Khi tạo khuôn, người nghệ nhân mang sáp ong nhúng vào dung dịch phân trâu, nhưng phải là phân trâu đực ba tuổi trộn với đất, cũng là loại đất lấy từ một nơi bí mật trong rừng chỉ có người làm nhẫn mới biết, sẽ cho ra một hỗn hợp không cháy trong độ nóng làm chảy bạc. Củi đốt là một loại cây rừng có tên kasiu, nếu đốt bằng các loại củi khác thì nhẫn sẽ bị nứt, gãy. Trước khi đúc nhẫn, đêm đó người nghệ nhân phải cách ly hoàn toàn với vợ; bốn giờ sáng bắt đầu nấu bạc, đúc nhẫn và tới tám giờ thì phải hoàn thành công đoạn cuối cùng.
Nếu như nghề làm gốm, nghề thổ cẩm có thể nhiều người học và làm được, thì đối với nghề đúc bạc làm nhẫn, chỉ có người Churu biết làm và trong cộng đồng Churu chỉ còn lại duy nhất nghệ nhân Ya Tuất. Chị Ma Wêl, vợ Ya Tuất kể rằng: “Nó (tức Ya Tuất – ngôi thứ hai, theo cách gọi của đồng bào) học được cái nghề này là do bố mẹ bắt học. Cùng học có nhiều người nhưng chỉ có nó được ông cậu là nghệ nhân Ya Grang thực sự truyền nghề cho. Lúc đã học thành nghề rồi nhưng về làm mãi mà cũng không được. Mãi tới khi ông cậu tặng cho bộ đồ nghề và ông qua đời rồi nó mới làm được”. Ya Tuất thừa nhận: “Học nghề này rất khó. Con mắt phải tinh, cái đầu phải sáng và cái tay phải lanh thì mới làm được”. Ông Ya Tiêng, cha của Ya Tuất, nói thêm: “Nghề làm nhẫn bạc tuy không phải là nghề làm ra nhiều tiền nhưng nó là cái nghề truyền thống của người Churu mình. Không thể bỏ nghề của ông bà được...”. Cũng bởi vì, trai gái của dân tộc này vẫn coi chiếc nhẫn bạc là vật trang sức ưa thích nhất, và trong lễ cầu hôn Churu, những chiếc srí, sră vẫn là tín vật mang ý nghĩa thiêng liêng...
Nghệ nhân Ya Tuấn truyền nghề cho con trai
Đám cưới được coi là một trong những nghi lễ đời người quan trọng nhất của người Churu. Theo chế độ mẫu hệ, con cái trong dân tộc này theo họ mẹ và hôn nhân là do phái nữ chủ động trước. Khi đến tuổi trưởng thành, các cô gái thường chọn cho mình một “ý trung nhân”, tự đi đặt nhẫn trước khi bắt chồng. Hôn nhân được đánh dấu bằng việc cô gái và gia đình chọn một ngày tốt lành sang nhà trai “chạm ngõ”. Thường thì cô gái không xuất hiện ngay mà tạm lánh vào nhà người quen gần nhà chàng trai nhất. Sau khi cha mẹ, người cậu bên nhà gái trình bày nguyện vọng muốn kết duyên của cô gái đối với chàng trai, nếu anh ta đồng ý thì sẽ có mặt để tiến hành nghi lễ đeo nhẫn. Khi trao nhẫn cho nhau, nữ trao cho nam trước, nam trao cho nữ sau. Gia đình nhà trai sẽ mang rượu uống với gia đình bên gái ngay sau khi lễ đeo nhẫn kết thúc. Lễ cưới của đôi trai gái Churu là dịp vui của cả cộng đồng. Ngay sau lễ cưới, đôi vợ chồng trẻ về ra mắt nhà trai, họ có thể lưu lại vài ngày và sau đó người con trai khăn gói về ở hẳn bên gia đình nhà vợ. Hôn nhân thủy chung một vợ, một chồng được người Churu đặc biệt coi trọng. Ly hôn được xem là một tội trọng khi srí, sra đã lồng ngón tay nhau...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét